Hai nhà khoa học Mỹ đã giành giải Nobel về y học năm 2024

Nobel Medicine

This photo combo shows 2024 Nobel Prize winners in physiology or medicine Gary Ruvkun, American molecular biologist, left, and Victor Ambros, professor of natural science at the University of Massachusetts Medical School, Monday, Oct. 7, 2024, in Newton, Mass. (AP Photo/Steven Senne) Source: AP / Steven Senne/AP

Hai nhà khoa học Mỹ đã giành giải Nobel về sinh lý học hoặc y học vì phát hiện ra microRNA, những đoạn nhỏ của vật liệu di truyền cung cấp một cách thức, để các nhà khoa học kiểm soát những gì đang xảy ra trong tế bào của chúng ta. Phát hiện của họ có thể dẫn đến những cách mới, để tìm ra và điều trị các bệnh, bao gồm cả ung thư.


Ủy ban Nobel thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển vào chiều ngày 7/10, công bố giải như vừa nêu.

Hội đồng trao Giải thưởng tại Stockholm cho biết, công trình của hai nhà khoa học người Mỹ Victor Ambros và Gary Ruvkun, đã tiết lộ một chiều hướng mới về quy định gen, vốn là điều cần thiết cho mọi dạng sống phức tạp.

Hội đồng trao giải cho biết, trong một thông cáo.

“Khám phá mang tính đột phá của hai nhà sinh học, tiết lộ một nguyên lý hoàn toàn mới về điều hòa gene".

"Nguyên lý này rất cần thiết cho các sinh vật đa bào, gồm con người".

"Hiện người ta biết rằng, bộ gene của con người mã hóa cho hơn 1.000 microRNA”, Hội đồng trao Giải thưởng.
Khám phá của hai nhà sinh học phân tử Victor Ambros và Gary Ruvkun đang chứng minh được tầm quan trọng cơ bản, đối với cách các sinh vật phát triển và hoạt động.

Từ năm 1901 đến nay, 114 giải Nobel Y sinh đã được trao cho 227 người nhận giải.

Số tiền cho mỗi giải Nobel năm nay là 11 triệu krona Thụy Điển, tương đương chừng 1 triệu USD.

Sinh Học Phân Tử Là Gì?

Theo thông tin Wikipedia, Sinh học phân tử là lãnh vực Sinh học nghiên cứu về cấu trúc hóa học và thành phần của các phân tử tế bào, cũng như cách thức các phân tử này tương tác trong sinh vật.

Sinh học phân tử tập trung đặc biệt vào axit nucleic như ADN, ARN và protein, là các đại phân tử cần thiết cho quá trình sống và cách thức các phân tử này tương tác và hoạt động trong tế bào.

Sinh học phân tử xuất hiện vào những năm 1930, phát triển từ các lãnh vực liên quan đến Hóa sinh, Di truyền, Miễn dịch, Tế bào học và Lý sinh.

Mối quan hệ phức tạp của gen và protein

Gen là các đoạn thông tin được lưu trữ trên các phân tử axit nucleic khổng lồ và protein là các phân tử theo đúng nghĩa của chúng, khiến cả hai đại phân tử này và mối quan hệ giữa chúng, trở nên cực kỳ quan trọng để nghiên cứu.

Các nhà sinh học phân tử làm việc để xác định và hiểu các phần của con đường sinh học.

Chẳng hạn như Protein có thể điều tiết và tác động lẫn nhau, đáp lại tín hiệu từ gen và đáp ứng các tín hiệu từ bên ngoài tế bào

Chuỗi dài các tương tác này, là điều mà nhiều nhà sinh học phân tử tìm cách ghi lại đầy đủ.

Mỗi bước trong lộ trình chức năng đều là thứ mà bệnh có thể phá vỡ, hoặc thuốc có thể nhắm tới.

Hiểu được vai trò của từng phân tử như vậy là rất quan trọng, để hiểu được các khía cạnh phức tạp hơn về cách sinh vật sống và hoạt động.

Các nhà sinh học phân tử cũng có thể tìm cách hiểu cấu trúc của một phân tử, bao gồm các chi tiết như vị trí và hình dạng của các vị trí hoạt động trên protein, ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của phân tử.

Việc thu thập thông tin này không chỉ cung cấp kiến thức cơ bản về cách hoạt động của sinh học, mà còn giúp thông báo nỗ lực của các nhà khoa học khác, đang tìm cách nghiên cứu sinh học đó, bao gồm các nhà chế tạo thuốc men và kỹ sư về di truyền.

Sự khác biệt trong sinh học phân tử, hóa sinh và di truyền học

Sinh học phân tử có nhiều điểm chung với hai ngành khoa học liên quan là hóa sinh và di truyền học.

Cả ba ngành khoa học đều quan tâm đến các chi tiết về cách thức hoạt động của các sinh vật ở cấp độ phân tử. Tuy nhiên, mỗi loại tập trung vào một lãnh vực khác nhau và có những ứng dụng khác nhau.

Chẳng hạn như Hóa sinh thường dành nhiều sự chú ý hơn cho các phân tử khác ngoài protein, tập trung vào axit nucleic và các tác động hóa học xảy ra khi có lượng chất lớn hơn, chẳng hạn như tác dụng của nọc độc. Ngoài ra, hóa sinh sử dụng nhiều phương pháp dựa trên nghiên cứu hóa học hữu cơ.

Còn Di truyền học tập trung đặc biệt vào các đặc điểm di truyền và sự thay đổi trong mã di truyền, ảnh hưởng đến sinh vật như thế nào.

Việc tập trung vào khả năng di truyền này có nghĩa là, di truyền học thường được nghiên cứu tốt nhất ở cấp độ dân số, khiến hướng nghiên cứu này trở thành một lãnh vực có quy mô lớn hơn nhiều, so với sinh học phân tử.

Mỗi lãnh vực trong số ba lãnh vực này chồng chéo và ảnh hưởng đến những lãnh vực khác, đặc biệt di truyền học đã chia sẻ nhiều điều với sinh học phân tử, nhất là là liên quan đến vai trò của ARN.

ARN vừa có thể lưu trữ thông tin như ADN, vừa thực hiện các chức năng hoạt động như protein.

Một nữ Giáo sư người Úc đoạt giải Nobel Y Sinh năm 2009

Năm 1984, bà Elizabeth Blackburn cùng với Carol Greider đã khám phá ra telomerase, một enzym giúp kéo dài đoạn telomere.

Vì nghiên cứu này, bà đã được trao giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 2009 cùng với Carol Greider và Jack W. Szostak.

Đồng thời, bà Elizabeth Blackburn là người phụ nữ người Úc đầu tiên được trao giải Nobel.

Do nghiên cứu telomerase vốn là đoạn cuối của chuỗi DNA của con người, bà còn phát hiện là nếu đoạn telomerase càng dài thì tuổi thọ con người càng được kéo dài hơn.

Thí nghiệm trên chuột đã mang lại kết quả khả quan và các nghiên cứu nói trên góp phần phát triển bộ môn nghiên cứu về lão hóa trên thế giới.
Tiết mục Cao niên Vui Sống đã đề cập đến câu chuyện nầy trong phần phỏng vấn với bác sĩ Liêu Vĩnh Bình ở Sydney, với đề tài ‘Làm thế nào để con người sống lâu’ bàn về việc nghiên cứu telomerase của bà Elizabeth Blackburn.

Trở lại với hai nhà khoa học Mỹ nhận được giải Nobel về Y Sinh năm nay, là các ông Victor Ambros và Gary Ruvkun.

Ông Ruvkun cho biết thật vui khi được công nhận, sau khi giải thích rằng ở tuổi 21, ông vẫn không biết phải làm gì với cuộc sống của mình, cho đến khi ông đọc một tạp chí Khoa học Mỹ và quyết định đến Harvard để học sau đại học.

"Từ 21 đến 24 tuổi, tôi đã khiến bất kỳ ai nghĩ về tương lai sự nghiệp của mình phải thất vọng".

"Vì vậy, tôi đã đến Harvard để học sau đại học, đó là vào năm 1976".

"Đó là thời điểm mà nghiên cứu về DNA tái tổ hợp thực sự mới bắt đầu cất cánh, rõ ràng đó là một cuộc cách mạng”, Gary Ruvkun.

Đồng hành cùng chúng tôi tại SBS Vietnamese Facebook và cập nhật tin tức ở sbs.com.au/vietnamese

Nghe SBS Tiếng Việt trên ứng dụng miễn phí SBS Audio, tải về từ App Store hay Google Play 

Share
Follow SBS Vietnamese

Download our apps
SBS Audio
SBS On Demand

Listen to our podcasts
Independent news and stories connecting you to life in Australia and Vietnamese-speaking Australians.
Ease into the English language and Australian culture. We make learning English convenient, fun and practical.
Get the latest with our exclusive in-language podcasts on your favourite podcast apps.

Watch on SBS
SBS World News

SBS World News

Take a global view with Australia's most comprehensive world news service